Ông Nguyễn Sơn Hải (đứng giữa), Cục trưởng Cục CNTT – Bộ GDĐT nhận Cúp và Chứng nhận từ Ban Tổ chức giải thưởng
Theo Ban Tổ chức, tại giải thưởng năm nay, có hơn 300 hồ sơ tham dự từ các cơ quan tổ chức, cộng đồng doanh nghiệp và cá nhân trên toàn quốc, nhiều hồ sơ có chất lượng nổi bật, ứng dụng nhiều công nghệ mới AI, bigdata, IOT, blockchain, cloud… trong lĩnh vực y tế, giáo dục, ngân hàng, bảo hiểm, xây dựng, năng lượng, logistics...Tại hạng mục “Cơ quan Nhà nước chuyển đổi số xuất sắc”, Cục Công thông tin - Bộ Giáo dục và đào tạo (GDĐT) được vinh danh với sản phẩm Hệ thống cơ sở dữ liệu ngành Giáo dục và đào tạo, Hệ thống Quản lý thi kết nối, chia sẻ dữ liệu với Cơ sở dữ liệu Quốc gia về dân cư.
Hệ thống phần mềm CSDL ngành giáo dục đặt tại địa chỉ https://csdl.moet.gov.vn, là một công cụ sử dụng thống nhất trong toàn ngành giáo dục (dành cho bậc học mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên) nhằm cung cấp hệ thống CSDL và thông tin phục vụ quản lý trong ngành giáo dục. Hệ thống sử dụng thống nhất cho 100%: cơ sở giáo dục mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông, trung tâm giáo dục thường xuyên, phòng GDĐT, sở GDĐT và Bộ GDĐT. Hệ thống hiện nay đã cấp và phục vụ cho khoảng 81.994 tài khoản sử dụng, trong đó: trường học có 77.236 tài khoản, phòng GDĐT có 3.222 tài khoản, sở GDĐT có 1.407 tài khoản và Bộ GDĐT có 129 tài khoản sử dụng.
Để tạo hành lang pháp lý và chỉ đạo triển khai sử dụng hệ thống CSDL này, cho đến nay, Bộ GDĐT đã ban hành 02 Thông tư , 02 Quyết định cá biệt và 27 văn bản chỉ đạo cập nhật, khai thác sử dụng CSDL.
Thực hiện kết nối dữ liệu từ các phần mềm quản lý trường học trong ngành giáo dục: Bộ GDĐT đã ban hành chuẩn dữ liệu và hướng dẫn kết nối và trao đổi dữ liệu (bằng hình thức API) giữa phần mềm quản lý ở các nhà trường với CSDL của Bộ. Hiện có hơn 25.000 trường học đã kết nối phần mềm với phần mềm CSDL của ngành giáo dục.
Thực hiện kết nối với CSDL quốc gia về dân cư: Thực hiện Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030”, CSDL của ngành giáo dục kết nối với CSDL quốc gia về dân cư của Bộ Công an và thực hiện các dịch vụ: xác thực định danh công dân (là học sinh và cán bộ trong ngành giáo dục), tham gia làm giàu dữ liệu về giáo dục trên CSDL QG về dân cư (đến nay, CSDL ngành giáo dục đã xác thực định danh được 17,4 triệu / tổng số 24 triệu học sinh và giáo viên trên cả nước; CSDL ngành giáo dục đã làm giàu dữ liệu cho CSDL QG về dân cư thông tin về giáo dục của hơn 1,9 triệu công dân là học sinh và giáo viên, việc đồng bộ vẫn đang tiếp tục thực hiện giữa 2 CSDL).
Hiện nay, CSDL ngành giáo dục đã số hóa và lưu trữ thông tin giáo dục về: trường học (hơn 50,000 trường học mầm non, phổ thông, trung tâm GDTX), lớp học, học sinh (hơn 23 triệu hồ sơ học sinh), đội ngũ cán bộ và giáo viên (1,5 triệu hồ sơ), một số thông tin về cơ sở vật chất và tài chính trường học của các năm học: 2018-2019, 2019-2020, 2020-2021, 2021-2022. Hệ thống CSDL này đã và đang cung cấp thông tin quản lý cho ngành giáo dục một cách kịp thời và tin cậy.
Ngoài việc cung cấp các thông tin tổng hợp về trường, lớp, học sinh, giáo viên, cơ sở vật chất, tài chính phục vụ quản lý tổng thể, CSDL ngành giáo dục còn phục vụ quản lý điều hành chuyên môn sâu ở một số lĩnh vực như:
Toàn bộ hoạt động thống kê của ngành giáo dục (thực hiện theo Luật Thống kê) được quản lý, vận hành trên hệ thống CSDL này.
Hệ thống thông tin phục vụ quản lý đội ngũ nhà giáo cung cấp thông tin hồ sơ của 1,5 triệu giáo viên. Từ năm 2019, lần đầu tiên ngành giáo dục đã chỉ ra tình trạng thừa-thiếu giáo viên của từng môn học của từng trường học. Việc này đã giúp Bộ GDĐT và các địa phương thực hiện chính sách về đội ngũ giáo viên ngày càng hiệu quả và thực tiễn.
Đối với học sinh: CSDL đã số hóa và lưu trữ toàn bộ thông tin về điểm số, học bạ ở các nhà trường (khoảng 24 triệu học sinh, cho các năm học từ 2018 đến nay), đã số hóa thông tin về sức khỏe học sinh (chiều cao, cân nặng, chỉ số BMI, một số bệnh về mắt, ..) cho khoảng 10 triệu học sinh.
Ngành giáo dục đã sử dụng CSDL để quản lý, điều hành Chương trình “Sóng và máy tính cho em”, áp dụng quản lý cho các khâu của Chương trình gồm: xác định nhu cầu tài trợ máy tính (đến từng học sinh), quản lý việc phân bổ máy tính đến các nhà trường, quản lý việc bàn giao máy tính đến từng học sinh được nhận.
Trong đại dịch Covid-19, ngành giáo dục đã sử dụng CSDL này để quản lý, điều hành nhiều hoạt động như: theo dõi tình hình tiêm vắc xin (đến từng học sinh và giáo viên), khai báo học sinh và giáo viên là F0 và F1 hàng ngày, cung cấp các thông tin cần thiết để phục vụ mở cửa trường học, …
Ngoài ra, CSDL ngành giáo dục đã cung cấp dữ liệu về học sinh phổ thông phục vụ quản lý kỳ thi tốt nghiệp THPT và cung cấp dữ liệu về học bạ phục vụ công tác tuyển sinh cho các trường đại học hàng năm hiệu quả.